Há»i chá»i trâu Äá» SÆ¡n sẽ hạn chế ngÆ°á»i xem
Mục lục:
- Các phương pháp điều trị
- Phẫu thuật thường là bước đầu tiên để điều trị u ác tính. Nó có thể liên quan đến việc cắt bỏ khối u, hoặc có thể yêu cầu loại bỏ thêm một số khu vực xung quanh. Một khi tế bào ung thư đã được loại bỏ, không cần điều trị thêm nữa. Trong nhiều trường hợp, thủ thuật cho khối u ác tính mỏng hơn có thể được thực hiện tại văn phòng bác sĩ, hoặc như một thủ tục ngoại trú. Xét nghiệm, có thể được thực hiện tại văn phòng bác sĩ, bao gồm tê vùng bị ảnh hưởng, sau đó cắt bỏ phẫu thuật để loại bỏ khối u ác tính.
- Đổi mới đã dẫn đến SLNB, do Dr. Donald Morton của Viện Ung thư John Wayne (JWCI) giới thiệu. Thủ tục mới này cho phép các bác sĩ kiểm tra các nút trọng điểm để xác định hành động tiếp theo. Theo báo cáo của NCI, dựa trên những phát hiện từ nghiên cứu của Dr. Morton năm 1992, "chỉ khi các hạch thang tính được tìm thấy là ung thư là tất cả các hạch bạch huyết gần đó bị loại bỏ. "Trong khi còn nhiều điều cần phải học, công nghệ mới này đã tiến bộ trong việc chẩn đoán các giai đoạn của u hắc tố và thiết kế một kế hoạch điều trị. Bằng cách xác định và loại bỏ các nút trọng điểm ở bệnh nhân, các bác sĩ có thể thiết lập nếu tất cả các hạch bạch huyết cần phải được loại bỏ. Các kết quả từ một nghiên cứu tiếp theo của JWCI xuất hiện trong
- vào tháng 9 năm 2006. Các nhà nghiên cứu tuyên bố rằng SLNB đưa ra một phương pháp có giá trị để xác định u ác tính đã lan đến các hạch bạch huyết dẫn đến cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót ở bệnh nhân.
Các phương pháp điều trị
Các giai đoạn sớm của bệnh u ác tính-u ác tính chưa lây lan- thường được điều trị với phẫu thuật để loại bỏ các tế bào ung thư và một số mô xung quanh. Ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết ở gần đó có thể yêu cầu loại bỏ các hạch bạch huyết.
Đối với ung thư đã lan ra các cơ quan khác, điều trị là khó khăn hơn. U ác tính thường không thể chữa khỏi ở thời điểm này, và điều trị sẽ trở thành hướng giảm khối u và cải thiện triệu chứng. Tuy nhiên, luôn có những khám phá mới và những tiến bộ trong điều trị nhằm điều trị các trường hợp ác tính nghiêm trọng hơn.
phẫu thuật- hóa trị liệu
- liệu pháp miễn dịch
- xạ trị
- xác định lymphô
- sinh thiết (SLNB) Phẫu thuật
Phẫu thuật thường là bước đầu tiên để điều trị u ác tính. Nó có thể liên quan đến việc cắt bỏ khối u, hoặc có thể yêu cầu loại bỏ thêm một số khu vực xung quanh. Một khi tế bào ung thư đã được loại bỏ, không cần điều trị thêm nữa. Trong nhiều trường hợp, thủ thuật cho khối u ác tính mỏng hơn có thể được thực hiện tại văn phòng bác sĩ, hoặc như một thủ tục ngoại trú. Xét nghiệm, có thể được thực hiện tại văn phòng bác sĩ, bao gồm tê vùng bị ảnh hưởng, sau đó cắt bỏ phẫu thuật để loại bỏ khối u ác tính.
Hoá trị được áp dụng theo chu kỳ, xen kẽ giữa thời kỳ nghỉ ngơi. Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ chỉ ra rằng hóa trị liệu kém hiệu quả đối với u ác tính hơn so với các loại ung thư khác. Tuy nhiên, việc điều trị có thể giúp làm giảm một số triệu chứng trong các trường hợp tiên tiến của bệnh.
tăng nguy cơ nhiễm bệnh
Các nghiên cứu đang được tiến hành tiếp theo là lợi ích của
các thuốc kháng angiogenic, một các loại thuốc được thiết kế để ngăn ngừa các mạch máu mới hình thành, do đó cắt giảm nguồn cung cấp từ có thể nuôi dưỡng các tế bào ung thư. Vẫn được coi là thực nghiệm, các thuốc này có thể cho thấy những nỗ lực đầy hứa hẹn trong việc chống lại u hắc tố.
- Liệu pháp miễn dịch (liệu pháp sinh học)
- Liệu pháp miễn dịch liệu pháp liên quan đến việc sử dụng các thuốc có nguồn gốc protein, như interferon, để tăng cường hệ thống miễn dịch và có thể được sử dụng kết hợp với các phương pháp điều trị khác. Ví dụ, ở những bệnh nhân u hắc tố dày hơn, các tế bào ung thư dường như đã được loại bỏ hoàn toàn bằng phẫu thuật nhưng vẫn còn những dấu vết nhỏ. Để đảm bảo rằng các tế bào ung thư không lây lan, một tiêm protein tăng cường hệ thống miễn dịch được sử dụng để ngăn ngừa bất kỳ tế bào còn lại từ phát triển.
- Xạ trị Xạ trị
- Xạ trị hiếm khi được sử dụng trên khối u ban đầu, nhưng thay vào đó chỉ dẫn thường xuyên hơn trên các hạch bạch huyết lân cận, sau phẫu thuật, để ngăn ngừa sự trở lại của ung thư. Hình thức điều trị này cũng được sử dụng để giảm các triệu chứng đau đớn do sự lan truyền của ung thư trong cơ thể. Các phản ứng phụ có thể bao gồm mệt mỏi, buồn nôn, và nôn mửa, và thường kết thúc sau khi điều trị xong.
- Sinh thiết hạch bạch huyết Sentinel (SLNB)
- Phát hiện sớm u ác tính là rất quan trọng trong việc chữa bệnh. Một khi khối u ác tính đã lan tràn tới các hạch bạch huyết hoặc các cơ quan khác, sẽ khó chữa trị hơn. Trước những năm 1990- và sự ra đời của các bệnh nhân
- bệnh nhân hạch lympho (SLNB) -
bệnh nhân có hai lựa chọn: cắt bỏ hoàn toàn hạch bạch huyết, hoặc quan sát thời gian "chờ đợi và xem" lo lắng. Tùy chọn đầu tiên đặt ra một số vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ. Các biến chứng như sưng mô và tê liệt là một tác dụng phụ tiềm ẩn của việc loại bỏ hoàn toàn các hạch bạch huyết - một thủ thuật không cần thiết cho nhiều bệnh nhân. Theo Viện Ung thư Quốc gia, số bệnh nhân thực sự đòi hỏi phải loại bỏ hoàn toàn hạch bạch huyết vẫn còn tương đối thấp, chỉ chiếm 20% số bệnh nhân u hắc tố. Tùy chọn thứ hai, nó đi mà không nói, cũng không phải là rất phổ biến.
Đổi mới đã dẫn đến SLNB, do Dr. Donald Morton của Viện Ung thư John Wayne (JWCI) giới thiệu. Thủ tục mới này cho phép các bác sĩ kiểm tra các nút trọng điểm để xác định hành động tiếp theo. Theo báo cáo của NCI, dựa trên những phát hiện từ nghiên cứu của Dr. Morton năm 1992, "chỉ khi các hạch thang tính được tìm thấy là ung thư là tất cả các hạch bạch huyết gần đó bị loại bỏ. "Trong khi còn nhiều điều cần phải học, công nghệ mới này đã tiến bộ trong việc chẩn đoán các giai đoạn của u hắc tố và thiết kế một kế hoạch điều trị. Bằng cách xác định và loại bỏ các nút trọng điểm ở bệnh nhân, các bác sĩ có thể thiết lập nếu tất cả các hạch bạch huyết cần phải được loại bỏ. Các kết quả từ một nghiên cứu tiếp theo của JWCI xuất hiện trong
The New England Journal of Medicine
vào tháng 9 năm 2006. Các nhà nghiên cứu tuyên bố rằng SLNB đưa ra một phương pháp có giá trị để xác định u ác tính đã lan đến các hạch bạch huyết dẫn đến cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót ở bệnh nhân.